Trong văn hóa truyền thống Việt Nam, bên cạnh con rồng đã được rất nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu, còn có một linh vật khá gần gũi với chúng ta, tuy nhiên những hiểu biết về nó vẫn còn rất mơ hồ. Đó là con Nghê.(1) Khác với con rồng mang tính cung đình, con Nghê là linh vật dân gian, được sử dụng một cách phổ biến cả trong văn hóa dân gian và trong văn hóa cung đình. Điều này dẫn đến một câu hỏi: Vậy con Nghê là linh vật dân gian ảnh hưởng đến văn hóa cung đình hay ngược lại? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta cần phải truy nguyên nguồn gốc của con Nghê. Việc này không hề dễ dàng, vì con Nghê không phải là một con vật có thực như rùa hay hổ, cũng không phải là những linh vật “ngoại nhập” như Tì hưu hay sư tử. Thậm chí, con Nghê còn “bị” đánh đồng với Lân, Lân mã, Long mã và Li. Lân, Lân mã/ Long mã/ Li/ Nghê cũng là những linh vật khá phổ biến trong văn hóa Việt Nam nhưng lại khó nhận dạng vì sự hình thành của chúng trong văn hóa Việt Nam khá phức tạp và thường bị lẫn lộn giữa loại này với loại khác. Chính sự phức tạp đó đã dẫn đến những cách gọi tên “hỗn độn” cho nhóm linh vật này. Dưới đây chúng ta cùng tìm hiểu những mối tương đồng và dị biệt giữa những linh vật trong nhóm này với con Nghê trong văn hóa Việt Nam.
1.Nguồn gốc và tên gọi
Trong số các linh vật có nguồn gốc Trung Hoa được nêu tên ở trên thì Lân là một con vật được biết đến nhiều nhất. Con Lân trong văn hóa Việt Nam có thể nhìn thấy trong các hội múa lân – múa rồng (múa tứ linh). Lân xuất hiện ở đình, chùa, đền, miếu và nhiều loại hình kiến trúc khác. Lân được trang trí ở nhiều vị trí khác nhau, vai trò khác nhau với những công năng khác nhau của một “linh vật ngoại nhập.” Trên thực tế, Lân là tên gọi tắt của con Kỳ lân có nguồn gốc từ văn hóa Trung Hoa với thành ngữ: “Lân, Phụng, Quy, Long vị chi tứ linh”. Theo “Thuyết văn giải tự” của Hứa Thận đời Hán, thì Lân là tên gọi chung chỉ cặp đôi Kỳ Lân, trong đó, Kỳ là con đực, và Lân là con cái. Lân được coi là loài thú nhân từ, không dẫm đạp lên cỏ tươi và sinh vật sống. Nói chung Lân là vật chỉ điềm lành, và cũng là con vật tưởng tượng không có thật (Kiều Thu Hoạch 2012, tr.26). Khi cặp đôi Kỳ và Lân du nhập vào văn hóa Việt Nam, người Việt chỉ tiếp nhận con Lân mà “quên đi” con Kỳ.
Trong khi Lân mã là một linh vật có sự kết hợp Lân – ngựa, còn Long mã là sự kết hợp rồng – ngựa thành một linh vật hư cấu nửa rồng nửa ngựa, thì Li lại là một cách gọi khác của Lân thường được biết đến trong bộ tứ linh ở Việt Nam: Long – Li – Quy – Phụng.(2)
Nói tóm lại, Lân/Lân mã/ Long mã/ Li là những tên gọi khác nhau của một linh vật có nguồn gốc Trung Hoa (Kỳ lân) được du nhập vào Việt Nam trong quá khứ và được trang trí trên các thành tố kiến trúc và nghệ thuật của người Việt. Trong khi đó, Nghê là linh vật tuy mang nhiều đặc tính bản địa của người Việt nhưng lại là một linh vật “khó hiểu” nhất trong văn hóa Việt Nam mặc dù vai trò và vị trí của nó gần giống như con Lân trong văn hóa Trung Hoa.
Về mặt từ nguyên, Nghê là một tên gọi thuần Việt nhưng trong các từ điển sinh học chúng ta không hề thấy tên của một loài động vật nào có tên gọi là Nghê (trong khi rùa, phượng, hổ, sư tử, ngựa, voi,… là những sinh vật có thực). Như vậy, có thể khẳng định rằng: Nghê là một linh vật hư cấu đã được hình thành trong văn hóa truyền thống Việt Nam. Trong các hiện vật khảo cổ trước giai đoạn thuộc Hán (từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ thứ IX) được tìm thấy tại Việt Nam, không có linh vật nào là con Nghê. Từ đây, chúng ta có thể suy đoán rằng: Con Nghê là một linh vật được hình thành trong văn hóa Việt Nam, mang đặc tính bản địa của người Việt nhưng có một số đặc điểm chịu ảnh hưởng của văn hóa “ngoại nhập”, đặc biệt là văn hóa Hán. Rất có thể, biểu tượng Nghê có liên quan đến Lân/Lân mã/ Long mã/ Li được hình thành trong văn hóa Việt Nam từ giai đoạn thuộc Hán. Khi nhà Lý xây dựng nền độc lập của quốc gia Đại Việt thì biểu tượng Nghê đã được định hình ở các công trình kiến trúc nghệ thuật như Hoàng Thành Thăng Long, chùa Phật Tích, chùa Dâu.(3) Điều này cũng dễ hiểu, vì sau nghìn năm Bắc thuộc trong suốt Thiên niên kỷ thứ I, rất nhiều thành tố văn hóa Trung Hoa đã thâm nhập và hòa đồng cùng với văn hóa của người Việt. Biểu tượng Nghê chỉ là một thành tố trong vô số thành tố văn hóa mà người Việt đã học hỏi, thêm bớt từ văn hóa Hán để biến thành sản phẩm văn hóa của riêng họ.
Nhưng nếu như Nghê là linh vật có ảnh hưởng từ loại linh vật tương tự trong văn hóa Trung Hoa, vậy tại sao các linh vật trang trí đó lại được gọi là Nghê mà không phải là Lân/Lân mã/ Long mã/ Li? Để trả lời câu hỏi này là một công việc “mò kim đáy bể”. Tuy nhiên, chúng tôi cũng thử đưa ra một cách lý giải về tên gọi này như sau: Xét trong số các “con của rồng” theo truyền thuyết “long sinh cửu tử” của Trung Hoa đã du nhập vào văn hóa Việt Nam có Toan nghê là linh vật có nhiều đặc tính giống con Nghê nhất như thân thú, có bờm,… Rất có thể Toan nghê(4) từ văn hóa Trung Hoa thông qua một tên gọi Hán-Việt có chữ “nghê” đã được Việt hóa thành con Nghê của người Việt.(5) “Bản thân chữ Nghê trong tiếng Hán gồm bộ Cẩu (chó) và chữ Nhi (trẻ con) hợp thành” (Trần Hậu Yên Thế 2011, tr.8).
Ngoài ra, chúng ta cũng cần tìm hiểu thêm về sự ảnh hưởng của biểu tượng sư tử trong nghệ thuật Phật giáo đến biểu tượng con Nghê trong văn hóa Việt Nam vì sư tử (Simhamukha) cũng là một linh vật quan trọng trong văn hóa Ấn Độ. Biểu tượng sư tử được cho là linh vật có sức mạnh siêu việt trong văn hóa Ấn Độ nên nó đã được sử dụng khá phổ biến từ thời vua A Dục (Asoka) đặt trên đỉnh các cột kinh – thường được gọi là cột đá Asoka(6) từ giai đoạn hưng thịnh của vương triều Maurya tại Ấn Độ, tạo nên một biểu tượng linh thiêng của Phật giáo và của văn hóa Ấn Độ. Tuy nhiên, sư tử không phải là loài vật phổ biến ở Trung Hoa, Việt Nam và các quốc gia ở Đông Nam Á nên trong nghệ thuật tạo hình của người Việt trước khi Phật giáo du nhập vào Việt Nam hoàn toàn không có biểu tượng sư tử. Phải chăng, do không có nguyên mẫu sư tử ở Đại Việt nên các nghệ nhân đã sáng tạo nên một loại linh vật “ngô nghê” mang đặc tính dân gian nên từ đó xuất hiện tên gọi Nghê? Trên đây chỉ là một vài giả thuyết mang tính gợi mở của chúng tôi dưới góc độ văn hóa dân gian và sự suy luận dưới góc nhìn của nghệ thuật tạo hình. Vấn đề này cần được tìm hiểu thêm bằng các phương pháp tiếp cận từ các chuyên ngành khác.
2. Những biểu hiện của con Nghê trong nghệ thuật tạo hình của người Việt
Khác với rồng là linh vật có vô số huyền thoại liên quan đến lịch sử hình thành dân tộc hoặc liên quan đến các bậc đế vương, Nghê là một linh vật hết sức giản dị tồn tại trong văn hóa dân gian. Vì vậy mà khi tìm hiểu về biểu tượng Nghê, chúng tôi không phân tích bằng các huyền thoại như đối với rồng mà tìm hiểu trên cơ sở đặc thù văn hóa Việt Nam, đặc biệt là nghệ thuật tạo hình dân gian của người Việt.
Xét về mặt tạo hình, Nghê là con vật có bốn chân, “có kỳ mà không có sừng, mình thon nhỏ, dáng thanh, trông rõ ràng dáng chó chứ không tròn mập như dáng sư tử” (Bùi Ngọc Tuấn, 2011). Do đây là một linh vật hư cấu nên nó không có hình dáng cố định như hổ hay sư tử mà luôn có sự biến đổi “thiên biến vạn hóa.” Trong các tư liệu lịch sử của Việt Nam chúng tôi chưa tìm thấy bất cứ một quy định nào của triều đình về thể thức tạo hình của con Nghê (giống như những quy định về thể thức tạo hình của triều đình Trung Hoa đối với các linh vật có tính cung đình). Vì vậy, chúng ta có thể đặt giả thuyết con Nghê là một linh vật được hình thành trên nền tảng văn hóa dân gian Việt Nam với các đặc trưng văn hóa bản địa, có sự kết hợp với các biểu tượng được du nhập từ Trung Hoa và Ấn Độ. Tuy nhiên, do được hình thành trong văn hóa Việt Nam nên biểu tượng con Nghê mang đặc trưng văn hóa của người Việt. Chính yếu tố này đã kiến tạo nên một biểu tượng văn hóa mới của người Việt khác Hoa và khác Ấn.
Nếu Nghê là một linh vật hư cấu được sản sinh trong nền văn hóa của người Việt, không phải là một con vật có trong tự nhiên mà cũng không phải là một “linh vật hoàn toàn nhập ngoại” vậy Nghê là linh vật được kết hợp bởi những đặc điểm của những con vật nào? Theo chúng tôi, trong văn hóa dân gian Việt Nam có một loài vật đã được thiêng hóa từ lâu đời là con chó và chó cũng được tạc thành tượng đặt ở cửa, cổng của nhiều công trình kiến trúc gọi là chó đá. Thậm chí ở một số nơi còn lập ban thờ, miếu thờ dành cho chó. Phải chăng, biểu tượng chó đá của người Việt đã kết hợp với biểu tượng Toan nghê để biến thành con Nghê trong nghệ thuật tạo hình dân gian của người Việt?.
Đây là một câu hỏi không dễ trả lời, tuy nhiên chúng tôi xin được đưa ra một cách lý giải riêng như sau: Biểu tượng con chó trong nghệ thuật dân gian của người Việt vốn giản dị và có phần “thấp kém”(7) hơn về địa vị nếu so sánh với các linh vật khác như Kỳ lân, rồng,… Khi văn hóa Khổng – Nho từ Trung Hoa ảnh hưởng đến văn hóa Việt Nam thì con vật canh cửa giản dị đó cần được “nâng cấp” cho tương xứng với những vai trò và vị trí mới. Rất có thể các nghệ nhân dân gian xưa đã thêm vào nhiều đặc tính “mới” từ Lân/Lân mã/ Long mã/ Li để “sang hóa” những linh vật canh cửa của mình. Khi con Nghê đã được định hình trong văn hóa Việt Nam, nó được lấy thêm nhiều đặc điểm của các linh vật khác như hổ, sư tử, rồng, lân,… thậm chí là khỉ, tương ứng với những dáng, thế khác nhau tùy thuộc vào vai trò và vị trí của mỗi biểu tượng. Tuy nhiên, đặc tính của con vật “canh cửa” vẫn là một đặc điểm nổi trội nhất của con Nghê. Có lẽ vì vậy mà từ “chầu” trong thành ngữ “phượng múa Nghê chầu” đã trở thành một đặc tính quan trọng để nhận dạng con Nghê trong văn hóa Việt Nam. Đây cũng là cách thức để chúng ta có thể phân biệt con Nghê trong nghệ thuật tạo hình dân gian của người Việt với các linh vật “ngoại nhập” như sư tử từ văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ đã và đang hiện hữu trong văn hóa Việt Nam.
Nói tóm lại, cho dù biểu tượng con Nghê được hình thành từ những loài vật nào thì chúng ta vẫn có thể khẳng định rằng đặc tính dân gian của con Nghê đã biến nó thành một đối tượng thể hiện có tính hư cấu cao trong nghệ thuật tạo hình của người Việt. Có lẽ vì vậy mà Nghê trở nên một linh vật giàu ngôn ngữ biểu tượng trong nghệ thuật tạo hình dân gian, bên cạnh con rồng là một dạng linh vật đã được “thể thức hóa” từ văn hóa cung đình. Đó là do sự kết hợp đặc tính của con vật hư cấu cộng thêm tính dân gian của biểu tượng Nghê khiến cho các nghệ nhân dân gian có thể phát huy được tối đa khả năng sáng tạo/hư cấu của mình. Sức sáng tạo đó đã góp phần đưa biểu tượng con Nghê trong văn hóa Việt Nam lên tầm của một linh vật biểu tượng đặc sắc, mang tâm hồn Việt Nam, bản sắc Việt Nam. Đây chính là một trong những thành tố văn hóa tiêu biểu nhất của nền văn hóa Việt Nam được sáng tạo bởi các nghệ nhân dân gian trong lịch sử văn hóa Việt Nam.
Sự hình thành biểu tượng con Nghê trong văn hóa Việt Nam là một sáng tạo tuyệt vời của cha ông ta trong việc tiếp thu và biến đổi các yếu tố văn hóa du nhập trên cơ tầng văn hóa bản địa để hình thành nên những thành tố văn hóa của riêng mình. Chính điều này đã góp phần tạo nên những nét đặc trưng trong văn hóa Việt Nam và đó cũng chính là một nét bản sắc văn hóa của người Việt khác Hoa và khác Ấn. Hơn thế, biểu tượng Nghê không hình thành từ những huyền thoại mà ra đời và phát triển thông qua quá trình lao động, chế tác của các nghệ nhân. Chính vì lý do đó mà biểu tượng Nghê lại trở nên gần gũi mà sống động với vô vàn hình dáng khác nhau, vô vàn kiểu thức khác nhau khiến cho ngôn ngữ tạo hình của linh vật này trở nên hết sức phong phú và đa dạng.
(Nghiên cứu này được tài trợ bởi Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia (NAFOSTED) trong đề tài mã số VIII1.3-2012.01).
Kỳ 2: Phân loại biểu tượng Nghê trong văn hóa Việt Nam
TS Đinh Hồng Hải – Trên TCKT số 12/2014