Cấu trúc cộng đồng trong tổ chức không gian sinh hoạt cộng đồng tại các khu ở đô thị

Cấu trúc cộng đồng trong tổ chức không gian sinh hoạt cộng đồng tại các khu ở đô thị

Các khu ở trong đô thị không chỉ là nơi sống của các hộ gia đình riêng lẻ mà còn là nơi hình thành, tồn tại và phát triển của một cộng đồng dân cư. Mỗi cá nhân luôn có nhu cầu tương tác với hàng xóm láng giềng tại nơi ở. Chất lượng môi trường xã hội khu ở phụ thuộc không nhỏ vào giải pháp tổ chức các không gian dành cho sinh hoạt cộng đồng xóm giềng.

Các cơ sở khoa học cho việc tổ chức không gian sinh hoạt cộng đồng xóm giềng hiện nay thường chỉ dựa trên nhu cầu, bán kính di chuyển, đặc điểm giao tiếp, nghỉ ngơi của mỗi cá nhân. Tuy nhiên từ nửa sau thế kỷ 20, yếu tố cấu trúc cộng đồng bắt đầu được quan tâm và làm thay đổi phương thức tổ chức không gian sinh hoạt cộng đồng. Cấu trúc cộng đồng phản ánh cách thức các nhóm người kết nối với nhau và hình thành đơn vị xã hội thông qua quan hệ xóm giềng. Thấu hiểu được cấu trúc này, nhà chuyên môn có thể sắp xếp, bố trí và xác định quy mô phục vụ cần thiết của từng loại không gian sinh hoạt cộng đồng một cách hiệu quả.

Mô hình hoạt động giao tiếp và không gian sinh hoạt cộng đồng xóm giềng

Tổ chức không gian sinh hoạt cộng đồng cho khu ở qua kinh nghiệm của nước ngoài

Có nhiều dạng sinh hoạt cộng đồng khác nhau có thể tồn tại trong khu ở đô thị như: Sinh hoạt cộng đồng xóm giềng, sở thích cá nhân (câu lạc bộ, hội chơi…), tôn giáo tín ngưỡng,… Trong đó, sinh hoạt cộng đồng xóm giềng quan trọng nhất vì có sự tham gia của mọi thành viên trong mỗi gia đình. Các sinh hoạt cộng đồng khác giúp mở rộng quan hệ, đảm bảo cho cư dân có sự cân bằng trong đời sống xã hội.

Các nhà nghiên cứu trên thế giới nhận định: Cộng đồng dân cư trong khu ở được tạo thành từ những đơn vị xã hội dựa trên quan hệ hàng xóm láng giềng và quyền lợi chính trị xã hội ở các mức độ khác nhau. Các đơn vị xã hội này sắp xếp trong một cơ cấu tầng bậc tương đối rõ ràng.

Tại Anh, vào thập kỷ 1960, các nhà thiết kế và quy hoạch đô thị đề xuất tổ chức các không gian khu ở dưới dạng nhiều đơn vị, khoảng 20-30 căn hộ, hạt nhân là không gian mở bán công cộng dành cho sinh hoạt cộng đồng [8]. Họ gọi đó là các đơn vị liên kết xã hội mạnh và áp dụng vào nhiều đô thị mới tại Anh, tiêu biểu là hai thành phố Runcorn và Milton Keynes.

Các nhà thiết kế đô thị và kiến trúc Bắc Âu cũng có nhận định tương tự: Cơ cấu xã hội của khu vực cư trú sẽ gồm nhiều đơn vị cộng đồng nhỏ sắp xếp theo thứ bậc. Từ thập kỷ 1970, họ đã áp dụng quan điểm trên để thiết kế một số khu nhà ở dưới dạng nhiều đơn vị không gian cơ sở gồm 15 căn hộ có trung tâm là quảng trường nhỏ và nhà cộng đồng. Không gian sinh hoạt cộng đồng của toàn khu ở được bố trí trên đường phố chính [5].

Khu ở Tinggården, Copenhagen (1977 – 79) có 6 nhóm nhà (A,B,C,D,E, F). Mỗi nhóm trung bình 15 hộ, xoay quanh sân chung và nhà cộng đồng (2). Trung tâm cộng đồng (1) chung của các nhóm được bố trí ở trục chính (Nguồn: Jan Gehl).

Tại Mỹ, trong một ấn phẩm công bố năm 1961, nhà nghiên cứu J.Omsbee cho rằng quan hệ xóm giềng tốt nhất diễn ra trong phạm vi không gian của 3 đến 12 gia đình, nếu nhiều hơn 16 hộ thì nhóm sẽ mất liên kết và tự chia nhỏ[10]. Các tác giả người Mỹ khác gồm J.D.Chiara, J.Pinero, M.Zelnik, vào năm 1964, cũng đưa ra nhận xét một đơn vị cộng đồng xóm giềng gần có quy mô từ 4 đến 20 hộ [3].

Giới chuyên môn châu Á cũng đưa ra nhiều kết quả nghiên cứu tương tự. Kobayashi Hideki, nhà nghiên cứu Nhật Bản, xác định phạm vi của một cộng đồng xóm giềng là trên dưới 10 hộ sống kề cận nhau [6] và có thể mở rộng đến 50 hộ tuỳ theo từng không gian đô thị cụ thể.

Balkrishna Doshi, KTS kiêm đô thị gia nổi tiếng của Ấn Độ khẳng định những sinh hoạt cộng đồng xóm giềng của mỗi gia đình thường giới hạn trong phạm vi 20 đến 40 hộ [1]. Trong cấu trúc mật độ cao kiểu chung cư, nếu quy mô đơn nguyên hoặc tòa nhà vượt quá 150 hộ, người dân không thể tạo dựng một cộng đồng.

Đầu những năm 1980, cũng tại Ấn Độ, KTS Charles Correa đã thử nghiệm thiết kế một số khu nhà ở tại Belapur, Mumbai bằng cách sắp xếp các nhóm nhà và không gian sinh hoạt cộng đồng theo quan hệ xóm giềng [4]. C.Correa lấy đơn vị gốc là một nhóm nhà cho 7 gia đình bao quanh sân sinh hoạt chung 8x8m. Ba đơn vị như vậy tạo thành nhóm nhà ở cấp hai lấy không gian mở 12x12m làm hạt nhân. Cuối cùng, ba đơn vị cấp hai kết hợp với nhau bằng không gian sinh hoạt cộng đồng có kích thước 20x20m.

Khu ở Belapur, Mumbai, 1983-1989, KTS Charles Correa.

Không gian khu ở được tổ chức theo 3 bậc bằng cách lấy nhóm nhà ở 7 hộ quanh một không gian sinh hoạt cộng đồng xóm giềng để làm đơn vị cơ sở.

Ở Singapore, sau một thời gian nghiên cứu mối liên hệ giữa sinh hoạt cộng đồng xóm giềng và không gian nhà ở, các KTS đã tổ chức chung cư thành từng nhóm 4 đến 8 hộ gia đình có không gian sinh hoạt cộng đồng đi kèm, nhằm tạo ra khả năng giao tiếp xóm giềng nhanh chóng và phù hợp [8].

Cho đến nay, người có quan điểm rõ ràng và đầy đủ nhất về cấu trúc cộng đồng dân cư là Christopher Alexander. Ông nhận định một nhóm nhà ở từ 8 đến 12 hộ gia đình sẽ có quan hệ xã hội thân thiết ở mức độ cao, mọi người thường chia sẻ tình cảm và thường xuyên thăm hỏi giúp đỡ lẫn nhau. Ở cấp độ tiếp theo là “cộng đồng láng giềng” (neigborhood) với dân số vừa đủ để cư dân hợp tác với nhau theo kiểu tự quản, tự chăm lo lợi ích của mình tại nơi cư trú mà không cần cơ cấu hành chính nào. Cộng đồng này có không quá 1500 người, lý tưởng là 500 người để tương tác xóm giềng hiệu quả. Cuối cùng, Christopher Alexander tổng hợp các kinh nghiệm tổ chức nhà nước trong lịch sử, từ nền dân chủ Athen, tư tưởng Nho giáo nêu trong sách “Đại học” đến khái niệm về dân chủ kiểu Mỹ của T. Jefferson và nhiều nghiên cứu khác để đưa ra khái niệm “Cộng đồng chính trị” (political community). Ông nhận định rằng, một đơn vị dân cư nên có khoảng 5000 đến 10.000 dân, lý tưởng là 7000 để quyền lợi và vị trí của mỗi cá nhân, mỗi gia đình được đảm bảo trong cộng đồng. Nếu cộng đồng này lớn hơn 10.000 người thì vai trò cá nhân sẽ bị xóa mờ [2].

Tất cả các quan điểm nêu trên đều hướng đến việc gắn không gian sinh hoạt cộng đồng cho những đơn vị cụ thể trong cấu trúc cộng đồng. Qua đó đem lại giá trị tinh thần cho không gian sinh hoạt cộng đồng, tăng sự kết nối giữa cư dân, nâng cao chất lượng môi trường xã hội và khả năng tự quản không gian khu ở của họ.

Cấu trúc cộng đồng xóm giềng trong các khu ở tại Việt Nam

Chưa có một nghiên cứu riêng biệt và toàn diện về cấu trúc cộng đồng xóm giềng trong các khu ở tại Việt Nam. Tuy nhiên, bằng phương pháp tổng hợp liên ngành xã hội học, dân tộc học, lịch sử, chúng ta có thể hình dung được phần nào cấu trúc cộng đồng xóm giềng ở Việt Nam và sự liên quan của nó với không gian cư trú và không gian sinh hoạt cộng đồng.

Theo kết quả điều tra xã hội học do Cục Quản lí nhà – Bộ Xây dựng phối hợp với trường Đại học Showa, Tokyo thực hiện ở Hà Nội năm 1999, thì 74% cư dân tại các khu ở có các giao tiếp, sinh hoạt xóm giềng mật thiết trong phạm vi dưới 15 hộ [12]. Trước đó, trong công bố khoa học vào năm 1981 của KTS Nguyễn Đức Thiềm, có 95% gia đình mong muốn mỗi đơn nguyên chung cư chỉ có 3-4 căn hộ trên 1 tầng để có quan hệ xóm giềng hợp lý [11]. Điều này cho thấy có sự hình thành của nhóm xã hội nhỏ qua quan hệ xóm giềng gần.

Đối với cấp độ sinh hoạt cộng đồng lớn hơn, chúng ta có thể nhìn qua trường hợp các tổ dân phố. Chúng chính là những cộng đồng thực sự bền chặt và hoạt động tự quản hiệu quả dù được thành lập bằng biện pháp hành chính. Do sống cùng khu vực, mọi người trong cộng đồng đều quen biết nhau và có thể thảo luận, đồng thuận các vấn đề dự trên quan hệ xóm giềng. Một thống kê nhỏ của chúng tôi cho thấy, ở Hà Nội, quy mô tổ dân phố thường khoảng 100 hộ dù hình thái không gian khu ở của các tổ đó hoàn toàn khác nhau (Xem bảng). Theo quy định, một tổ dân phố tại Hà Nội phải từ 250 hộ trở lên [13], nhưng thực tế cho thấy, khi nhóm dân cư trong một khu vực cư trú trở nên quá lớn, tổ dân phố sẽ phải chia nhỏ về một quy mô nhất định thì mới có thể tồn tại. Chẳng hạn như trường hợp như chung cư T34 Trung Hòa – Nhân chính. Có 380 hộ sống chung trong tòa nhà nhưng phải chia thành 2 tổ dân phố.

Bảng khảo sát dân số các phường thuộc quận Hai Bà Trưng, Hà Nội (Nguồn: Trang web UBND quận Hai Bà Trưng năm 2015)

Đối với cấp cộng đồng lớn, tương tự cộng đồng chính trị (theo quan niệm của Christopher Alexander), trong truyền thống quần cư của người Việt, đó là làng và phường trong đô thị cổ. Chúng thể hiện sự trùng khớp giữa các cơ cấu: Hành chính – không gian ở – quan hệ cộng đồng. Có những cơ sở cho thấy cộng đồng làng xã có giới hạn nhất định về quy mô dân số. Làng Việt dần ổn định từ thế kỷ 15 với sự xuất hiện của đình, khi đó làng có quy mô tối đa là 600 hộ, khoảng 3000 dân. Cho đến thế kỷ 20, theo thống kê của nhà dân tộc học Pierre Gourou, 98,7% làng dưới 4000 người và chỉ 1,3% trên 4000 người [6]. Với mức độ biến đổi chậm như vậy, có thể cho rằng quy mô cộng đồng kiểu làng xã truyền thống hiện nay có thể vẫn không quá 4000 người.

Như vậy, tại Việt Nam, trong các khu dân cư cũng có những loại hình cộng đồng xóm giềng gần, cộng đồng tự quản dân phố và cộng đồng chính trị. Nếu hiểu rõ cấu trúc này, nhà chuyên môn có thể tổ chức không gian sinh hoạt cộng đồng phù hợp với nhu cầu của người Việt.

Kết luận

Để tổ chức không gian sinh hoạt cộng đồng xóm giềng trong các khu ở đô thị, rõ ràng không thể bỏ qua vai trò của cấu trúc cộng đồng dân cư.

Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, khi tính toán quy mô và lựa chọn giải pháp tổ chức không gian sinh hoạt cộng đồng cho các khu ở đô thị, người thiết kế gặp lúng túng ngay trong quy định về quy mô dân số khu ở. Văn bản quy phạm hiện hành quy định dân số đơn vị ở (khu ở) dao động trong một dải rất rộng từ 4000 đến 20.000 người, cấp không gian nhỏ hơn là nhóm nhà ở thì không nêu rõ. Điều này hoàn toàn không lý giải được về mặt xã hội, dẫn đến thiếu căn cứ để đưa ra giải pháp tổ chức không gian. Nhìn vào kinh nghiệm thế giới và những số liệu về cấu trúc cộng đồng ở Việt Nam đã phân tích ở trên, có thể thấy đơn vị ở chỉ nên có quy mô từ 4000 – 5000 với các nhóm nhà ở hoặc đơn nguyên có tối đa 100 gia đình và sau đó là các nhóm không quá 15 căn hộ. Các không gian sinh hoạt cộng đồng sẽ được phân bố và tính toán quy mô tương ứng với cơ cấu đó.

Sự ăn khớp giữa không gian sinh hoạt cộng đồng với cấu trúc cộng đồng như trên sẽ giúp giao tiếp xóm giềng nói riêng và môi trường xã hội khu ở phát triển tốt và cân bằng.

ThS. KTS Trương Ngọc Lân

Bộ môn Lý thuyết và Lịch sử kiến trúc – Đại học Xây dựng

(Bài đăng trên Tạp chí Kiến trúc số 4 – 2017)

Tài liệu tham khảo:

1. Doshi Barkrishna (1992), Development of Kharghar Node – Dynamics of an Ideal Habitat, Stein Doshi& Bhalla, Ahmedabad, India

2. Alexander Christopher (1977), A pattern language: Town Building Contruction, Oxford university press, Newyork

3. De Chiara Joseph, Panero Julius, Zelnik Martin (1995), Time-saver standards for Housing and residental development, McGrawHill, USA

4. Khan Hassan- Udid (1987) Charles Correa- Architect in India, A Mimar book, Butterworth Architeture.

5. Gehl Jan (2009), Cuộc sống giữa những công trình kiến trúc : Sử dụng không gian công cộng, NXB Xây dựng và Healthbridge Canada, Hà Nội

6. Gourou Pierre (1936), Người Nông dân châu thổ Bắc kỳ (dịch năm 2002 theo bản tiếng Pháp năm 1936), NXB Trẻ, Hội khoa học Lịch sử Việt Nam, Viện Viễn đông bác cổ Pháp.

7. Kobayshi Hideki- (1992), Giới hạn học trong cư trú tập hợp, Shokoku

8. Đặng Thái Hoàng (1993), Quy hoạch đô thị cận hiện đại phương Tây, NXB Xây dựng. Hà Nội.

9. Cát Nguyên (2006), Bố trí không gian sống phải phù hợp với lối sống – Phỏng vấn KTS Liu Thai-Ker, Tạp chí Nhà Đẹp số tháng 11 năm 2006

10. Ormsbee Simomds John (1998), Landscape architecture & manual of Site Planing and design, Mc.GrawHill.

11. Nguyễn Đức Thiềm (1981) Một số khía cạnh “xã hội học- nhà ở” trong các khu nhà ở nhiều tầng mới xây dựng của Hà Nội (đánh giá về giải pháp kiến trúc và điều tra nguyện vọng ở), Báo cáo khoa học hội nghị, Viện Xã hội học, Hà Nội.

12. Trường đại học tổng hợp Showa, Tokyo, Nhật Bản (1999) – Tài liệu điều tra khảo sát nhà ở khu tập thể Nghĩa Đô, Thành Công Hà nội

13. Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội (2013), Quyết định số 50/2013/QĐ-UBND về việc ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của thôn, tổ dân phố trên địa bàn thành phố Hà Nội. Hà Nội.