Làng Cự Đà, xã Cự Khê, huyện Thanh Oai, Hà Nội nằm dọc theo sông Nhuệ, cách trung tâm Hà Nội chưa tới hai chục cây số. “Nhất cận thị, nhị cận giang” – gần thành phố lại gần sông thuận đủ bề để Cự Đà phát triển hơn nhiều làng khác. Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 là giai đoạn hưng thịnh nhất của Cự Đà, ngôi làng nhỏ này đã sinh ra một lớp doanh nhân tên Cự, tiêu biểu nhất là nhà máy dệt của gia đình cụ Cự Doanh (phố Hàng Quạt).
Sẵn trên cái nền là một ngôi làng cổ như bất kể một ngôi làng nào ở Bắc Bộ, có cổng làng, đường làng, giếng làng, có đình, chùa, đền, miếu; nhà 3 gian, 5 gian 2 chái tiền kẻ hậu bẩy lại thêm dòng sông Nhuệ trên bến dưới thuyền. Khi những doanh nhân giàu có quay về làng, họ xây nhà xây cửa theo những mẫu kiến trúc đang thịnh hành thời đó là kiển trúc thuộc địa (hoặc còn gọi là kiến trúc Đông Dương), một phong cách kiển trúc giống như cuộc gặp gỡ của Đông và Tây. Thế là Cự Đà vừa là làng, vừa là phố trong làng, những biệt thự lần đầu được nằm cạnh nhà cổ truyền Bắc Bộ, cạnh lũy tre xanh. Đẹp và duyên dáng. Người làng Cự Đà chịu thương, chịu khó, “ông trời” ban thêm cho họ ngoài thế đất đẹp là nghề làm miến và tương. Miến và tương Cự Đà đã là thương hiệu. Đường làng ngõ xóm đầy phên phơi miến, những sân gạch kín chum tương to nhỏ xếp hàng, nong nia, gồng gánh, mua bán, nói cười, chợ phiên ngày lẻ…

Trải qua những dâu bể, bể dâu, Cự Đà nay đã khác xưa nhiều, cơn bão đô thị hóa quét qua đã làm Cự Đà sứt mẻ, rơi rụng, 10 phần nay chỉ còn non nửa. Nhiều nhà cổ bị phá, phong trào bê tông hóa, nhôm nhựa hóa, mái tôn hóa xanh đỏ, kệch cỡm. Tất nhiên lỗi đâu chỉ tại người dân. Nhu cầu của đời sống hôm nay khác trước nhiều, họ cũng cần chỗ ở khang trang, rộng rãi, rồi còn lấy vợ, gả chồng, sinh con đẻ cái. Các cấp chính quyền thì thừa “nhiệt tình năng nổ” cấp đất cho các ông bà chủ để làm khu Công nghiệp và đô thị, người dân thì hồ hởi nhận tiền đền bù và đương nhiên khi có tiền thì một số người không thể giữ nguyên nhà cổ nữa, phá đi xây nhà mới.

Để giữ gìn di sản thì không thể chỉ dựa vào tấm lòng của người dân, cốt lõi phải là luật pháp, cơ chế chính sách của người cầm quyền. Cự Đà, Đường Lâm,… là những bài học cay đắng cho vấn đề không cân bằng được giữa phát triển và bảo tồn. Nhóm họa sỹ chúng tôi đã về Cự Đà nhiều lần, ngồi vẽ miệt mài bên những sân đình, chum tương, phên phơi miến… Các họa sỹ đã tập hợp những tác phẩm của mình trong một triển lãm nhỏ.

Lần đầu tiên có một triển lãm vẽ về làng, trưng bày ở làng, mời dân làng đến xem. Khoảng 30 tác phẩm với nhiều chất liệu khác nhau gắn trên những tấm phên phơi miến sắp đặt trong không gian một ngôi nhà cổ 3 gian 2 chái, cùng với những cái bàn bày tương và miến đặc sản Cự Đà. Qua các tác phẩm ấy, người dân nơi đây ít nhiều có những cảm nhận khác biệt về miền quê của mình.

Những tác phẩm hội họa này không chỉ còn là những bức tranh phong cảnh đèm đẹp chung chung, nó đã cất lên một tiếng nói khác – Tham gia vào một câu chuyện của xã hội, câu chuyện gìn giữ bảo tồn di sản.
HS. Lê Thiết Cương
(Bài đăng trên Tạp chí Kiến trúc số 12-2017)