Giải pháp phát triển Thành phố Hồ Chí Minh trên cơ sở ý tưởng quy hoạch đô thị theo đạo lý châu á

Giải pháp phát triển Thành phố Hồ Chí Minh trên cơ sở ý tưởng quy hoạch đô thị theo đạo lý châu á

Trong quá trình nghiên cứu Đồ án Quy hoạch chung TP Hồ Chí Minh đến năm 2025, một câu hỏi lớn luôn được đặt ra là: Trong điều kiện hiện nay, với lý thuyết quy hoạch đô thị hiện đại chủ nghĩa vừa khô cứng, vừa mang tính áp đặt thì giải pháp nào cho công tác quy hoạch phát triển TP Hồ Chí Minh để có thể đáp ứng yêu cầu hiện tại và phù hợp với phát triển trong tương lai? Trong bài viết này, chúng tôi đề cập đến lý thuyết “Quy hoạch đô thị theo đạo lý Châu Á” của GS.TS. William S.W.Lim. Đây là một hướng tiếp cận mới, đáng tin cậy trong việc giải bài toán quy hoạch cho các đô thị châu Á nói chung và cho TP Hồ Chí Minh nói riêng.



Ủy ban nhân dân TP năm 1965

Tác giả – GS.TS Wiliam S. W. Lim và tác phẩm Quy hoạch đô thị theo đạo lý Châu Á:

GS.TS.William S.W. Lim tốt nghiệp KTS ở Trường Kiến trúc của Hội KTS Anh (Architectural Association) London và đã nghiên cứu tại khoa Quy hoạch đô thị và Quy hoạch vùng của đại học Harvard. Ông là công dân Singapore.

Theo GS.William S. W. Lim, trong những thập kỷ vừa qua, hiện tượng toàn cầu hóa được đánh dấu bởi tốc độ và cường độ, ngày càng gây ra biến động ảnh hưởng lớn tới nền văn hóa, giá trị và lối sống, trên phạm vi và quy mô toàn cầu. Với bối cảnh đó, ông đã nhận dạng ba vấn đề tương quan rất quan trọng đối với các đô thị Châu Á:

– Thứ 1: Với sự thất bại sắp xảy ra của quy hoạch hiện đại chủ nghĩa, những “dấu chân” và “xác chết” của các ảo tưởng hiện đại chủ nghĩa đã thất bại được bày bừa bãi khắp mọi nơi?”

– Thứ 2: Hàng triệu dân nghèo đô thị trong những nền kinh tế đang nổi lên của Châu Á bị tấn công bởi sự giải tỏa đô thị và tái phát triển, họ đáng được hưởng phần chia công bằng hơn từ lợi ích của sự phát triển.

– Thứ 3: Sự trống rỗng hiện nay của lý luận đô thị cấp tiến khả thi đã xảy ra khi có sự mở rộng chưa từng thấy và cơ cấu lại các TP ở những nền kinh tế phát triển nhanh.

Cuốn sách đã ra đời trong hoàn cảnh như vậy. Tác giả bày tỏ mong muốn “Xin tặng cuốn sách này cho hàng triệu dân nghèo đô thị ở các nước Châu Á có nền kinh tế mới nổi, những người đáng được hưởng những phần chia công bằng từ lợi ích của sự phát triển”.

Trong tác phẩm “Quy hoạch Đô thị theo Đạo lý Châu Á”, GS Lim đề xuất 7 yếu tố tạo nên một mô hình phát triển chung cho các đô thị Châu Á, đó là: Bảo tồn và ký ức, Bảo vệ đất công, Không gian không xác định, Chính sách đất, Công lý về không gian, Giao thông đô thị và Nhu cầu cơ bản cho người nghèo đô thị. GS Lim đưa ra các yếu tố này với mong muốn hướng đến một xã hội công bằng, tốt đẹp có bản sắc. GS Lim khẳng định: “Đạo lý là khoa học về đạo đức và mục đích của nó là làm cho hạnh phúc của mỗi cá nhân và toàn xã hội nói chung đạt đến mức tối đa”.

Khi phân tích quy hoạch các đô thị Châu Á theo xu hướng hiện đại khuôn mẫu phương Tây tác giả đã đi đến 2 nhận định quan trọng:

– Quy hoạch có tính bùng nổ trong nền kinh tế phát triển nhanh của các TP lớn ở Châu Á đã thúc đẩy nhiều hoạt động xây dựng đô thị tự do, thường là hỗn loạn, không như mong đợi.

– Việc đô thị hóa rầm rộ ở các đô thị Châu Á tuy lý thú, có nhiều cơ hội vô tận, nhưng cũng có thể dẫn đến kết cuộc gây tai họa, nhất là cho tầng lớp công nhân và người nghèo đô thị.

Trong bối cảnh đó, tác giả cho rằng thách thức quan trọng nhất của phát triển đô thị Châu Á hiện nay: “Sự bành trướng và tái thiết các đô thị lớn có thể làm tăng hạnh phúc của cư dân đô thị hay không”.

Tác giả đã đưa ra những vấn đề cốt lõi để giải quyết thách thức trên bằng ý tưởng “Quy hoạch đô thị theo đạo lý Châu Á”.

GH E4

Ý tưởng quy hoạch TP Hồ Chí Minh theo đạo lý Châu Á:

Xem xét và phân tích tác phẩm Quy hoạch đô thị theo đạo lý châu Á, chúng tôi chọn 5 yếu tố tương thích nghiên cứu và đề xuất vận dụng đối với Đô thị TP HCM, đó là: Bảo tồn và ký ức, bảo vệ đất công, đất đô thị, công lý về không gian và giao thông đô thị.

1. Bảo tồn và ký ức (Conservation and Memories)

Theo GS Lim: “Mỗi địa phương có những tòa nhà, những công trình, những không gian mang ý nghĩa” – Đó chính là những hình ảnh được lưu giữ trong ký ức của người dân đã, đang sống qua từng giai đoạn thăng trầm của lịch sử. Chúng ta phải lưu giữ tất cả ký ức ấy dù quy mô có nhỏ bé như thế nào. Bởi lẽ, việc lưu giữ chính là lưu truyền những ký ức về thị giác trong môi trường đô thị. Thực tế cho thấy: Lịch sử và ký ức của một đô thị là vô cùng phức tạp bởi sự hình thành do tác động ở các phạm vi xã hội, chính trị, kinh tế, kể cả sắc tộc và phong tục tập quán. Do đó, chính quyền đô thị quyết định tu bổ hay giữ gìn một điểm nào đó không chỉ phản ánh tính “chính sử” mà còn phải công nhận cả ký ức của tầng lớp dân thường trong đô thị đó.

Đối với TP HCM, có phải hiện nay những “ký ức” đang được bảo tồn? Câu hỏi này không chỉ dành cho chính quyền địa phương mà cho mọi người có trách nhiệm và tất cả những ai yêu mến TP HCM với các công trình kiến trúc có giá trị, thực tế sự lưu giữ và bảo tồn dường như không trọn vẹn.

Ngoài ra, bảo tồn “ký ức” giúp cho TP HCM trân trọng, bảo vệ và sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên được ban tặng một cách tốt nhất trên cơ sở sự phát triển tương tác qua lại giữa con người và thiên nhiên, đi đến một xã hội, một đô thị hiện đại và thân thiện – nơi mà con người và thiên nhiên cùng hạnh phúc.

2. Bảo vệ đất công (Safeguarding the Commons)

Theo GS.TS.William S.W.Lim, các quốc gia dân tộc phải hành động có trách nhiệm với tư cách những người được ủy thác bảo vệ quyền được hưởng đất công và các dịch vụ cộng đồng, đất công là công viên, vườn hoa, những khu đất trang trọng, quảng trường, nghĩa trang, khu bảo tồn thiên nhiên. Đặc biệt, đối với TP HCM mặt nước có thể được coi là đất công.

TP HCM được xác định là một thành phố phát triển năng động, là một trong mười điểm đến hấp dẫn nhất cả nước. Tuy nhiên, các công trình có tính chất lịch sử, văn hóa và khu vui chơi giải trí, các danh lam thắng cảnh, kể cả các khu nghỉ dưỡng và bầu không khí trong lành mát mẻ thiên nhiên ưu đãi cho TP HCM dường như ngày càng thu hẹp đáng kể so với quy hoạch ban đầu. Phải chăng một phần đất công đã “biến mất” theo thời gian? Khu sân bay Tân Sơn Nhất là một ví dụ minh chứng cho sự dịch chuyển của đất công.

Đất công, từ đó hình thành không gian sinh hoạt cộng đồng. Có thể nhận định một cách khách quan rằng Sài Gòn xưa – TP HCM hôm nay ít có những không gian công cộng, nơi mà người dân địa phương có thể đến vui chơi, giải trí, tập thể dục thể thao hay tổ chức những không gian sinh hoạt theo nhóm xã hội, khu vui chơi cho trẻ em hạn hẹp, công viên còn những hàng rào cách biệt với người dân.

Chúng ta quan tâm quá nhiều đến các khu văn phòng, khách sạn và nhà ở mà quên mất rằng chính những công dân nghèo ở quận 6, quận 8 hay Nhà Bè cũng như những người khách du lịch tới TP HCM, họ thích tham gia hoạt động tham quan, khám phá những danh lam thắng cảnh “cổ xưa” để hưởng thụ tinh thần nhiều hơn vật chất, mong tìm lại “Lối xưa xe ngựa hồn Thu Thảo / Nền cũ lâu đài bóng tịch dương” (Bà Huyện Thanh Quan). Vì vậy bài toán về “bảo vệ đất công” đối với TP HCM phải đặt ra với tinh thần cấp bách.

3. Đất đô thị (Land Policy)

Đất không phải là một tài nguyên vô tận. GS Lim cho rằng: “Chính sách về đất là công cụ đầy quyền lực để đạt được phạm vi rộng lớn của những mục tiêu chính trị, kinh tế và xã hội. Bởi vậy nó phải gắn chặt với các khái niệm về đạo lý và phải có lợi cho cả cộng đồng”. Sức mạnh từ chính sách về đất đô thị đã được một số chính quyền đô thị Châu Á sử dụng rất hiệu quả, tiêu biểu phải kể đến Chính phủ Singapore và Chính quyền Hồng Kông. Hai TP này thường xuyên tạo ra thu nhập cực kỳ lớn từ quỹ đất đô thị với chính sách gia tăng giá trị thông qua quy hoạch sử dụng đất để khuyến dụ phát triển, song khi phát triển đất đô thị thì hiện tượng “bành trướng” thường đi đôi với “tai họa”. Theo GS Lim, “tai họa” lớn nhất: đó là sự mất chỗ ở của người nghèo, thu hẹp diện tích đất nông nghiệp, tạo sự mất cân bằng trong đô thị. Chính vì vậy: “Vấn đề đất phải được phân tích rõ từ bên ngoài khuôn khổ địa vị hợp pháp và quyền sở hữu trên cơ sở trách nhiệm về đạo lý của nhà quản lý và tiếng nói tập thể của người dân đô thị”. Một đô thị đặc biệt như TP HCM thì đất đô thị lại càng là một thứ quý giá vô cùng. Đất TP HCM không thể định lượng thông qua các dự án phát triển “đơn phương” từ một lợi ích cục bộ nào đó, cần tôn trọng, ứng xử “nhân văn” với ý tưởng ban đầu “TP HCM là một Hòn ngọc Viễn Đông” của hôm qua, còn hôm nay và ngày mai thì sao?

Những khoảng đất trống không có nghĩa là không mang chức năng cụ thể mà đó chính là những không gian cần thiết về cảnh quan, về môi trường và không gian “thở” cho chính TP HCM đang ngày càng bị bê tông hoá.

Với thực trạng về quỹ đất như TP HCM hiện nay, nên xem xét mô hình kết hợp giữa cấu trúc “lỏng” và “nén”, có thể “nén” chặt hơn ở ngay vùng ngoại vi có tầm nhìn và cảnh quan rộng lớn

Quỹ đất TP HCM không còn nhiều, nếu như muốn bảo tồn sự hài hoà về mặt cảnh quan cũng như đáp ứng được nhu cầu phát triển ngày càng cao của 1 đô thị cấp tiến như TP HCM, chúng ta có trách nhiệm phải sử dụng quỹ đất hiếm hoi ấy một cách kinh tế nhất và hiệu quả nhất, sử dụng đất ít nhất, sinh ra lợi nhuận cao nhất và phải coi việc đóng góp cho cảnh quan cũng là một lợi nhuận.

Như vậy, việc xem xét ở những vị trí nhất định có hệ số nén cao, có chiều cao công trình đủ làm điểm nhấn đóng góp vào cảnh quan chung là điều rất nên làm.

Cụ thể như việc hạn chế các loại nhà ở riêng lẻ xây dựng trong khu trung tâm, khuyến khích nhà đầu tư xây dựng những công trình chung cư cao tầng hoà nhập với địa hình ở vùng ngoại vi, xây dựng những toà nhà cao tầng được thiết kế theo mô hình sinh thái, tiết kiệm năng lượng; tuyển chọn kỹ lưỡng những nhà đầu tư, và đặc biệt là lựa chọn những đơn vị thiết kế để tham gia vào những dự án nhạy cảm tạo điểm nhấn cho cảnh quan TP HCM.

4. Công lý về không gian (Spatial Justice)

Quy hoạch theo đạo lý là hướng đến sự hài hòa và công bằng, công bằng về quyền lợi hưởng thụ không gian giữa con người với con người, giữa con người và thiên nhiên luôn luôn là một nội dung quan trọng và nhạy cảm. Trong nền kinh tế thị trường, dưới sức ép của hiệu quả đầu tư, người ta dễ thiên lệch về hướng quy hoạch những không gian tiện ích kinh doanh, nhằm khai thác những gì sẵn có để tạo lợi nhuận vật chất trước mắt, phục vụ cho một nhóm người có quyền lực và tiềm năng về kinh tế. Tuy nhiên, một quy hoạch hợp đạo lý cần phải hướng tới số đông, hướng đến một đô thị phát triển bền vững và thân thiện, có những không gian không sinh ra lợi ích vật chất một cách rõ ràng, mà hướng tới những giá trị vô hình, tạo ra sự cộng hưởng từ quá trình tham dự của cộng đồng, tạo ra những giá trị mới. GS Lim đã viết: “Sự kết hợp của những âm thanh ồn ào với vô số hình ảnh bắt gặp đáng ngạc nhiên đem lại sự kích thích khoái cảm và niềm hân hoan khó mà tin được, nhất là khi những hoạt động sáng tạo được xuất hiện trong khoảng không gian trống”. Công bằng về không gian đô thị cũng là điều hết sức khó khăn của các chính quyền đô thị bởi những mâu thuẫn nội tại (lợi nhuận – cảnh quan – môi trường) sinh ra từ việc sử dụng không gian đô thị. Trong đó, sự không công bằng lớn nhất về không gian ở tất cả các TP ở Châu Á đều dành cho người nghèo đô thị. Người nghèo đô thị luôn sống chen chúc trong các khu xuống cấp về môi trường, có cơ sở hạ tầng kỹ thuật và các dịch vụ xã hội yếu kém. Chính vì vậy GS Lim cho rằng: “Áp dụng sự công bằng về không gian đô thị một cách hữu hiệu rõ ràng là một nhiệm vụ khó khăn vì cần phải xem xét lại và thay đổi nhiều lý luận và thực tiễn quy hoạch hiện nay đã ăn sâu vững chắc từ lâu”.

TP HCM có nhiều không gian, hình ảnh quen thuộc, là nơi mọi người tụ tập, dạo chơi trong không khí cộng đồng. Đó sẽ là không gian điển hình về “không gian Sài Gòn”. Sự đông đúc, ồn ào sẽ không hề mất đi mà trái lại càng tăng thêm giá trị ban đầu về sự yên tĩnh, trầm mặc. Không gian cộng đồng hài hòa giữa động và tĩnh, cân bằng giữa âm và dương, lắng đọng âm hưởng không gian xưa và tồn tại hiện hữu không khí hôm nay, một kết nối thực tại và quá khứ, đấy cũng là một sự công bằng trong đạo lý về không gian đô thị. GS Lim cho rằng “Tất cả mọi người đều có quyền hưởng thụ không gian như nhau” hoàn toàn không phải là nói suông. Quy hoạch theo đạo lý châu Á chính là hướng tới những giá trị nhân văn như vậy”.

TP.HCM của chúng ta đã có “công lý về không gian” trong tâm thức của mỗi người hay chưa?

5. Giao thông đô thị (Urban Transport)

Mô hình giao thông cơ giới đô thị nội đô có thể khẳng định sự phát triển theo địa hình, song cũng nên bàn thêm về những tiếp cận bằng phương tiện thô sơ và cự ly tiếp cận cho người đi bộ. Cùng với việc kiểm soát mật độ xây dựng và khoảng cách xây dựng giữa các công trình, khi có thiết kế đô thị cho từng khu vực, ta có thể nghiên cứu thêm những lối đi bộ, đi dạo trong những khoảng không gian còn lại giữa những công trình nhằm tạo sự liên kết công năng, cảnh quan cho toàn khu vực. GS Lim cho rằng “Các nhà quy hoạch đô thị cũng cần tiến hành hoạch định hệ thống giao thông tĩnh trong đô thị bằng việc tận dụng địa hình để bố trí những bãi xe ngầm, bán ngầm, tránh bê tông hóa nền đất làm ảnh hưởng đến cảnh quan và môi trường”. Bên cạnh đó, khái niệm về giao thông đô thị của đạo lý Châu Á là “không giới hạn” về phương tiện và hệ thống mạng lưới đường, đặc biệt quan tâm đến các tuyến giao thông mang tính “động lực” từ bên ngoài.

Đối với TP HCM, bên cạnh việc hoàn thiện mạng lưới đường, cần kiến tạo những con đường “động lực” – bổ sung cho hệ thống giao thông đối nội, kết hợp với đường vành đai để góp phần “giảm áp” cho mạng lưới đường hiện hữu. Như vậy, chúng ta cần phải đặt ra nhiệm vụ quy hoạch giao thông mang tính chất kết nối giữa trung tâm và ngoại vi hơn là chỉ xoay sở trong phạm vi nội đô của TP HCM. Các khu chức năng này sẽ lan tỏa theo trục đường “động lực” hướng ngoại làm giảm sức ép phát triển đô thị quá nặng lên khu trung tâm hiện hữu. Điều này hợp với quy luật phát triển tự nhiên và là bước phát triển tất yếu của đô thị TP HCM trong tương lai.

Kết luận

Từ Ý tưởng Quy hoạch đô thị theo đạo lý châu Á đến thực tiễn phát triển đô thị nói chung ở Việt Nam, ở TP HCM nói riêng, cho phép ta đi tìm lời giải “Phát triển đô thị hay kinh doanh đô thị!”

Quy hoạch đô thị theo đạo lý Châu Á hướng đến một thành phố phát triển bền vững ở các mặt với mong muốn cụ thể:

– Đô thị phát triển hiện đại và đa dạng;

– Đô thị phát triển theo đạo lý và mang lại công bằng hạnh phúc cho mọi người trong xã hội;

– Đô thị phát triển hướng đến toàn cầu thích ứng với địa phương có tính cấp tiến;

Để làm rõ những tư tưởng trên đối với một đô thị cụ thể cần có những nghiên cứu tiếp theo thông qua các phương án quy hoạch theo tinh thần “Đạo lý châu Á”. Đối với TP HCM, chúng tôi đề xuất định hướng của giải pháp trước mắt:

– Phát triển TP HCM vì một đô thị hài hòa: TP HCM phát triển hài hòa ở các lĩnh vực trên cơ sở tôn trọng quá khứ (bảo tồn ký ức), ứng xử dung hòa với hiện tại (công lý về không gian) và khẳng định sự bền vững cho tương lai (bảo vệ đất công), lấy đạo lý – hạnh phúc người dân và thiên nhiên làm nền tảng, đặc biệt quan tâm đến người nghèo đô thị.

– Kiến trúc TP HCM – Kiến trúc xanh vì một đô thị xanh: Các công trình kiến trúc phải hướng đến các giải pháp thiết kế sinh thái hòa đồng với hệ sinh thái của TP HCM và các giải pháp thiết kế theo hướng vận dụng công nghệ cao để tiết kiệm năng lượng, có thể gọi đây là xu hướng kiến trúc xanh – kiến trúc bền vững cho đô thị xanh.

– Kiến trúc cao tầng – điểm nhấn cần thiết trong không gian cảnh quan vùng ngoại vi của TP HCM: Để giải bài toán quy mô phát triển gia tăng với quỹ đất không đổi, hướng nghiên cứu không gian cao tầng cho TP HCM là tất yếu. Tại thời điểm hiện nay, việc nghiên cứu quy hoạch không gian cao tầng cho TP HCM vừa đáp ứng được yêu cầu phát triển của đô thị đa trung tâm, vừa tạo điểm nhấn về mặt thị giác trong không gian cảnh quan đô thị, vừa tạo quỹ đất dự phòng có giá trị phát triển cho thế hệ mai sau.

– Quy hoạch tổng thể và ý chí của người lãnh đạo: Quyết tâm trở lại điểm xuất phát ban đầu Đô thị Sài Gòn – Hòn ngọc Viễn Đông

– Quy hoạch tổng thể theo “Đạo lý châu Á” để gia tăng những giá trị mới mang tính thời đại đặc biệt là những giá trị nhân văn cho TP HCM và các vùng phụ cận. Các nhà chuyên môn và lãnh đạo thành phố đủ bản lĩnh để tìm lại những giá trị của đô thị đã mai một để làm cơ sở cho sự phát triển không “khiếm khuyết” trong tương lai.

Vì một đô thị phát triển bền vững – một TP HCM hiện đại, văn minh và nhân văn.

PGS.TS.KTS Phạm Tứ

ThS.KTS Phạm Thị Ái Thủy


Đại học Kiến trúc TP Hồ Chí Minh