Hồ Gươm là một bài học quy hoạch hoàn chỉnh nhất trong vòng hơn trăm năm qua. Điều này được chứng minh không chỉ ở phạm vi trung tâm Hà Nội, nơi Hồ Gươm được mặc định là hạt nhân của không gian thành phố. Cách thức quy hoạch lấy một mặt hồ có độ lớn vừa phải, hình dáng thường quy về tròn, có một vài kiến trúc nhỏ làm điểm nhấn, tận dụng hệ thống cây xanh và đường giao thông vòng quanh hồ, đã gây ảnh hưởng đến các quy hoạch những hồ nước trong đô thị về sau. Có lẽ ở khía cạnh ý tưởng, không phải là đầu tiên trong lịch sử, quy hoạch này có kế thừa mô hình của cả đình tạ Á Đông lẫn công viên Pháp, ảnh hưởng qua hai nền văn hóa giao thoa, và hơn thế là những người làm quy hoạch đã biểu tượng hóa các kiến trúc trong đó để thổi một cái hồn còn sức sống đến nay cho Hồ Gươm.
Bản đồ quy hoạch Hà Nội 1873
Cái nền Á Đông sẵn có
Trước khi người Pháp tới, các danh sĩ Bắc Hà như Nguyễn Văn Siêu, Vũ Tông Phan… đã ghi dấu ấn bằng cách đặt vào những hình thái cảnh quan kiểu đình tạ ảnh hưởng từ lối quy hoạch truyền thống, đặc điểm chung các nước ảnh hưởng nền văn hóa Trung Hoa. Đền Ngọc Sơn, tháp Bút, đài Nghiên, nối với nhau bằng cầu Thê Húc, là một cách các thế hệ nhà nho khoa bảng lẫn tài tử thế kỷ 19 thi triển những biểu tượng văn hiến Nho giáo. Bên cạnh hồ là một trái núi đá nhỏ, trên có ngọn tháp, thừa kế phong cách kinh điển của tương quan Thiên – Địa – Nhân trong bố cục chiều cao – như các ngọn tháp trên các đỉnh hay sườn núi đã đi vào mô tả của Trương Hán Siêu hay Nguyễn Trãi về núi Dục Thúy với ngọn tháp được ví như “trâm ngọc” cài vào từ thế kỷ 14-15, và nhất thiết cả quần thể soi bóng bên một khúc sông hay mặt hồ nhằm kích đại chiều sâu không gian.
Việc “cải tiến” nội dung tháp chạy đàn hay đặt xá lị của tín ngưỡng Phật giáo sang tháp kỷ niệm văn chương đã khiến cho tháp Bút có đặc điểm độc đáo (trên mặt có 3 chữ “Tả Thanh Thiên” – viết lên trời xanh), làm thành cặp biểu tượng với đài Nghiên – chiếc nghiên đá đặt ở cổng giữa vào đền Ngọc Sơn, cung cấp một nội dung sinh động cho cái vỏ kiến trúc vốn không nhiều đột biến. Cây cầu dẫn vào một hòn đảo, cùng với một phương đình kiểu thủy tạ là Trấn Ba Đình, thực tế là một mô phỏng các kiến trúc đình tạ – cầu kiều, nhưng đã thoát ly khỏi chốn cung đình quý tộc để xuất hiện ở nơi công cộng bình dân. Cũng phải nói rằng vào thế kỷ 19, Thăng Long đã trở thành Bắc Thành rồi Hà Nội, không còn là kinh đô và giới quý tộc triều cũ đã thất thế, vì vậy việc tái hiện một khung cảnh có tính cung đình ở Hồ Gươm cung cấp một ánh xạ của các vườn ngự uyển trong cung vua hoặc phủ chúa. Trong Thượng kinh ký sự của Lê Hữu Trác, khi viết về phủ Chúa Trịnh ở khu vực phía Tây Nam Hồ Gươm ngày nay, tác giả viết: “Hành lang, lan can quanh co, tiếp nối song song… Vòng quanh ước chừng một dặm, nơi nào cũng lầu đài, đình, gác,… giữa đất bằng nhô lên ngọn núi cao, cây to bóng mát, nhịp cầu sơn vẽ bắc ngang lạch nước quanh co, lại có lan can toàn bằng đá màu”. Còn Tang thương ngẫu lục của Nguyễn Án bổ sung: “Đến ngày chúa ngự ra chơi Bắc cung, cung có cái ao gọi là Long Trì rộng nửa dặm. Trong ao trồng rất nhiều hoa sen, hoa súng. Ven ao đắp đất trồng đá làm núi, chỗ cao chỗ thấp, dàn đặt có hình thế. Có những chỗ khuỷu để cho nhạc công ngồi đàn sáo. Bờ ao trồng hàng mấy trăm cây phù dung, treo đèn ở trên. Sóng trăng rập rờn, trông xa tựa hàng vạn ngôi sao sáng…”
Cùng với quần thể đền Ngọc Sơn, những kiến trúc khác như đền Bà Kiệu, chùa Báo Ân, tháp Rùa và nhà hàng Thủy Tạ những năm 1940, đều là những kết quả của ảnh hưởng bố cục không gian Á Đông. Chúng chú trọng tính mở của không gian. Nhược điểm của hệ thống này là sự tản mát của các hạng mục và không có trục rõ ràng. Chúng cũng thiếu một đường giao thông ven hồ nối với nhau, như những gì ghi chép lại trong “Hà Nội giai đoạn 1873-1888” mà André Masson đã dẫn lời một nhân chứng: “Hồ Gươm làm người ta buồn nôn vì đây là nơi nhận đủ thứ rác rưởi, nhà dân bản xứ vươn ra hồ trên những chiếc cọc… Các túp lều của dân bản xứ trên bờ hồ san sát nhau đến nỗi, để xuống được hồ, sau khi rời những con đường khá bẩn nhưng vẫn đi được, người ta phải len lỏi qua những ngõ ngách chật hẹp men theo hàng ngàn khúc quẹo… nhiều khi không sao tới được mép nước, nếu tới được cách mép hồ vài bước thì cũng chán không muốn gặp một cái phá độc hại ngay giữa Hà Nội cổ”. Bỏ qua nhận xét tiêu cực thì dễ hiểu là đến giữa những năm 1870, Hồ Gươm vẫn có dáng dấp những ao hồ nông thôn. Đây cũng là phần ngoại vi khu 36 phố phường, mật độ dân cư thưa hơn, nhà cửa kém kiên cố hơn các khu phố cổ mạn trên hoặc khu người Hoa.
Dấu ấn Pháp trong tiếp biến cảnh quan
Trong vòng bốn năm từ khi người Pháp bình định xong Bắc Kỳ, Hồ Gươm trở thành trung tâm của công cuộc chỉnh trang thành phố Hà Nội, dẫn tới hai mốc quan trọng là Thành phố Hà Nội hiện đại được thành lập năm 1888 và trở thành Thủ đô của Liên bang Đông Dương vào năm 1902, theo quyết định của Tổng thống Pháp. Kết quả của cuộc chỉnh trang là con đường quanh hồ với độ rộng cho bốn làn xe, dẫn đến sự xóa bỏ chùa Báo Ân (cũng như ngọn Tháp Hòa Phong khác) của chùa này và tam quan đền Bà Kiệu ở mép hồ bên kia đường với các kiến trúc còn lại. Đan cài vào đó là việc mở ra các trục công viên hướng ra hồ, lấy tháp Rùa làm đích, hai bên trục này là các kiến trúc mới như Tòa Đốc lý, Nhà Bưu điện. Bố cục không gian của khu vực Hồ Gươm trở nên rõ ràng, mạch lạc khi khu vực phía Bắc là quảng trường rộng dẫn vào khu phố cổ bản địa thấp tầng ít cây xanh, tuyến cây xanh được tăng dần khi bắt đầu qua cụm đền Ngọc Sơn để vào khu phố Tây, và ở đây mới bắt đầu có những ngã tư giao thông có làn xe đúng nghĩa. “Đầu năm 1885, phố Hàng Khảm (tức trục Tràng Tiền – Hàng Khay – Tràng Thi ngày nay) trở thành một phố được trải đá dăm khá tốt, rộng từ 16 đến 18m, các cửa hàng hầu như của người châu Âu…” Năm 1884, Trú sứ Bonnal cho nhập 2 chiếc xe tay từ Nhật. Năm 1885, Hà Nội có xe khách công cộng do ngựa kéo. Năm 1886, có hai chiếc xe bốn bánh đầu tiên.
Ở đây, người ta nhận thấy có một sự thăm dò hơi công thức trong việc quy hoạch các khu chức năng. Cách xếp đặt các công trình hành chính đô thị (tòa đốc lý, tức thị chính) cạnh các dịch vụ công (bưu điện), vườn hoa, công nghiệp phục vụ dân sinh (nhà máy điện), và khu cửa hàng, giải trí (quán rượu, hiệu thuốc) liền kề quanh một ngã tư Hàng Khay – Tràng Tiền – Bờ Hồ (Đinh Tiên Hoàng ngày nay) mang kiểu cách của một đô thị quy mô nhỏ, giao thông cơ giới không nhiều, vốn rất phổ biến cho những đô thị mới lập ở phương Tây. Tuy nhiên, sự có mặt của Hồ Gươm đã làm cho đô thị này không giống các đô thị khuôn mẫu nhàm chán. Nó chứa những dấu ấn kiến trúc cảnh quan Á Đông như đã nói ở trước, có độ mở và tạo phần âm cho một khu vực có mật độ xây dựng khá dày. Việc cải tạo và lấy Hồ Gươm làm lõi của khu trung tâm Hà Nội đã thành công khi đây trở thành sự chuyển tiếp hợp lý giữa khu phố bản địa phía Bắc với khu phố Pháp phía Nam. Nó tránh được những sự giao thoa tương phản quá mức, và những kiến trúc đơn lập trên những hòn đảo như đền Ngọc Sơn, tháp Rùa… hoặc ngọn tháp Hòa Phong còn lại trên vỉa hè phía Đông Nam hồ trở thành sự “cài cắm” kéo yếu tố bản địa vào gần không gian kiến trúc mới. Như nhận xét của André Masson: “Nó là cái gạch nối vui tươi giữa khu phố người bản xứ với khu phố Pháp”. Tháp Rùa trở thành một loại cột kỷ niệm gần với phong cách quảng trường châu Âu (cột Obelisk), để mắt người đi quanh neo vào như một điểm nhấn. Điều thú vị là thay vì một quảng trường lát gạch đá mênh mông, ở đây là một “quảng trường” mặt nước.
Nơi lắng đọng hai nền văn hóa
Qua thời gian, những hồ nhỏ khác ở trung tâm Hà Nội sau này cũng mang dấu ấn ảnh hưởng của hồ Gươm. Hồ Thiền Quang cũng tính đến việc tạo đảo nhỏ góc hồ có cầu dẫn, Hồ Trúc Bạch có đảo Ngũ Xã, Hồ Bảy Mẫu có đảo Hòa Bình, và cho đến những Hồ Giảng Võ, Thủ Lệ… đều cố gắng tìm một điểm nhấn, hoặc về chiều cao như một khách sạn cao tầng ven hồ, hoặc về tính đặc trưng của kiến trúc như đền Voi Phục. Hồ Bảy Mẫu được quy hoạch vào cuối những năm 1950, tương đồng với Hồ Gươm về cách tạo những kiến trúc vọng hồ như bến nước, dàn pergola, cầu cong kiểu Á Đông dẫn ra đảo… Tuy vậy, các hồ này đều có điểm khác với Hồ Gươm là vị trí hoặc nằm trong một tiểu khu dân cư hay khu tập thể, hoặc ở một góc trục đường giao thông, chứ không phải có nét giống như 1 vòng xoay lớn để các hướng giao thông cũng như trục quy hoạch hướng vào – vốn là đặc trưng của Hồ Gươm. Vì thế, tính chất tâm điểm của các hồ này không có. Ở đây chưa bàn đến yếu tố biểu tượng của các thành phần kiến trúc đền, chùa, tháp… vốn được bồi đắp thêm bằng các câu chuyện văn hóa đằng sau, chẳng hạn truyền thuyết lịch sử vua Lê trả gươm cho thần Kim Quy.
Bài học của Hồ Gươm gợi ý cho người làm quy hoạch về một cách dùng mặt nước như quảng trường, nó làm tăng thêm tính hiệu quả của hình thức này trong các công viên vườn hoa, bên cạnh tính chất điều hòa vi khí hậu cũng như các ưu điểm về môi trường mà ngay từ khi quy hoạch, người Pháp đã nhấn mạnh. Tính chất quảng trường cũng dễ tạo nên bối cảnh cho các hoạt động cộng đồng của đô thị, tạo nên sức sống của thành phố một cách mềm mại, nhất là những thành phố thừa hưởng di sản của hai nền văn hóa Đông – Tây như Hà Nội. Bằng chứng là đến ngày nay, tính chất tụ hội của không gian công cộng Hồ Gươm vẫn chiếm vị trí nổi bật trong lựa chọn các hoạt động tầm thành phố hoặc thậm chí, quốc gia.
KTS Nguyễn Trương Quý