Nhà rường với trần và vách đất kiểu Kiến trúc Nguyên thủy và độc đáo của Xứ Thuận Hóa xưa

Nhà rường với trần và vách đất kiểu Kiến trúc Nguyên thủy và độc đáo của Xứ Thuận Hóa xưa

Nhà rường Huế đã trở thành một di sản vô cùng quí báu của kiến trúc cổ Việt Nam. Tiếp nối kiểu nhà rường của người Việt tại quê cũ Hoan-Ái, cư dân Thuận Hóa với năng khiếu thẩm mỹ sáng tạo, đức tính cần cù và bàn tay khéo léo đã tạo cho nhà rường xứ Huế một bản sắc độc đáo. Trải qua gần bốn trăm năm với hơn nửa thời gian đầu là Thủ phủ của Đàng Trong, rồi sau đó là chốn kinh kỳ của cả nước, nhà rường Huế đã tiếp thu, phát huy và kết hợp được phần lớn tinh hoa kiến trúc nhà rường của dân tộc Việt.



Chạm trổ tinh tế là nét tinh túy của nhà rường

Ca dao Huế xưa có câu: “Nhà rường mà lợp tranh mây, thân anh lắm vợ như dây buộc mình”. Nhiều người ngày nay và mai sau hẳn sẽ còn thắc mắc khi nghe nói về độ bền chắc của những ngôi “nhà rường” được lợp “tranh mây” như câu ca vừa nhắc đến.

Nhà rường ở Huế được làm theo nhiều kiểu cách khác nhau tùy theo hoàn cảnh và sở thích của từng gia chủ, với cấu trúc phổ biến chung là nhà có rường cột bằng gỗ, tường gạch và mái ngói. Tuy nhiên, ít ai ngày nay còn biết rằng tường gạch và mái ngói của nhà rường Huế mới chỉ dần trở nên phổ biến vào đầu thế kỷ XX. Còn trước đó ngoài các cung điện, công sở và dinh thự là có tường gạch và mái ngói, thì hầu hết các nhà rường ở xứ Huế đều được cấu trúc với rường cột bằng gỗ, vách trát đất và mái lợp bằng cỏ tranh. Theo dòng lịch sử của vùng đất này, vào buổi đầu mở cõi, trong điều kiện giao thông vận tải còn cực kỳ khó khăn, thêm vào đó, đất đai của Thuận Hóa vốn lại không thích hợp để có thể chế tác nên các loại ngói lợp nhà chịu được mưa nắng của vùng đất vẫn được ví là “Ô Châu ác địa” này, việc tận dụng các vật liệu thô tại chỗ vào các công trình xây dựng là ưu tiên hàng đầu của cư dân bản địa. Về sau khi giao thông đã trở lên thuận lợi hơn, các loại gạch ngói cũng được vận chuyển dễ dàng từ các xứ xa đến, nhất là khi các loại vật liệu xây dựng như xi măng, sắt thép… ngày càng phổ biến, kiểu nhà rường với tường xây và mái ngói trở nên thịnh hành hơn. Dần dần kiểu nhà rường với vách trát đất và mái lợp cỏ tranh đã dường như không còn nhìn thấy, tức là kiểu nhà rường vốn có từ thuở sơ khai của xứ Thuận Hóa hầu như đã biến mất.

Mảng tường đất quét vôi với khung bao bằng gỗ

Mảng tường đất quét vôi với khung bao bằng gỗ

“Rục rịch” tre và vách tường bằng đất trộn rơm (chỗ bị hư do tiếp xúc trực tiếp với mưa, nắng lâu ngày)

“Rục rịch” tre và vách tường bằng đất trộn rơm (chỗ bị hư do tiếp xúc trực tiếp với mưa, nắng lâu ngày)

May thay, hiện nay tại xóm Phú Thọ thuộc làng Phú Lễ, xã Quảng Phú, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế vẫn còn một nguyên bản của kiểu nhà rường cổ này – nhà rường với trần và vách trát đất.

Đây là ngôi nhà một gian hai chái được xây dựng vào đầu thế kỷ XX. Người đã tạo lập nên ngôi nhà là một vị võ quan triều Nguyễn – cụ Thất Phẩm Đội Trưởng Nguyễn Ái Doãn. Ngôi nhà là sự kết hợp hài hòa giữa nghệ thuật điêu khắc trên gỗ, bàn tay khéo léo của người thợ thủ công với mây tre và sự sáng tạo trong việc sử dụng những vật liệu xây dựng hoàn toàn có sẵn tại địa phương: gỗ mít, dây mây, tre, cát, sạn, vôi hàu, đặc biệt là đất có sẵn trong vườn nhà và rơm thu hoạch sau vụ lúa…

Sở dĩ ngôi nhà vẫn còn nguyên vẹn đến nay là nhờ ở kỹ thuật làm nhà rường cổ với sự kỳ công cả trong khâu chuẩn bị vật liệu lẫn khâu thực hành xây cất. Để hoàn thành ngôi nhà rường theo qui cách 3.2 một gian hai chái này, gia đình chủ nhân và những người thợ đã bỏ công sức hơn bảy năm liền.

Khung cửa cột kèo của ngôi nhà đều được bằng gỗ

Khung cửa cột kèo của ngôi nhà đều được bằng gỗ

Với mong muốn lưu lại được một phần căn bản qui trình và kỹ thuật làm nhà rường của tổ tiên từ xa xưa mà cho đến nay vốn đã mai một, chúng tôi xin sưu tầm ghi chép lại:

Quá trình chuẩn bị:

Trước tiên là khâu chuẩn bị vật tư cho rường gỗ của ngôi nhà. Hầu như toàn bộ rường gỗ của ngôi nhà này được làm từ gỗ lõi của cây mít vườn, đây là loại gỗ vốn được xem là quí và khá phổ biến ở xứ Thuận Hóa từ xưa với các đặc điểm: màu vàng, có vân đẹp, ít bị co giãn, nứt nẻ, cong vênh, không bị mối mọt và có tuổi thọ cao.

Công việc quan trọng và khó khăn nhất là chọn gỗ làm đòn tay thượng tích (đòn tay nóc) và rường cột của ngôi nhà. Với một ngôi nhà rường một căn hai chái loại này, số cột phải có tổng cộng là 24. Trong đó bao gồm 4 cột hàng nhất (với 1 nhất đông tiền, 1 nhất đông hậu, 1 nhất tây tiền, 1 nhất tây hậu); 4 cột hàng nhì (1 nhì đông tiền, 1 nhì đông hậu, 1 nhì tây tiền, 1 nhì tây hậu); 2 cột đỡ “kèo đấm” đông, tây và 14 cột hàng ba (2 cột đỡ đuôi kèo hàng ba tiền (đông, tây), 2 cột đỡ đuôi kèo hàng ba hậu (đông, tây)); 4 cột đỡ đuôi kèo đấm (đông tiền, tây tiền, đông hậu, tây hậu); 2 cột đỡ khóa rương (đông, tây); 4 cột đỡ đuôi kèo quyết (đông, tây, tiền, hậu). Theo quan niệm truyền thống của người Việt cổ, gỗ làm đòn tay thượng tích và cột nhà (đặc biệt là các cột hàng nhất) phải chọn loại sanh mộc (tức loại cây khi bị đốn hạ tận gốc thì luôn có thể tự hồi sinh thành một cây mới). Do đó loại cây hay được chọn nhất ở Thuận Hóa để dùng vào việc này là loại cây mít thẳng, già, lá xanh tốt, không bị tì vết, không bị cụt mất ngọn; gia đình chủ sở hữu cây gỗ phải toàn vẹn cả vợ chồng con cái…

Ngoài ra, còn phải tập hợp thêm một lượng lớn cây gỗ mít để làm các chi tiết khác như kèo, xuyên, trếnh, khóa rương, đòn tay, đà kiềng… Gỗ xẻ bảng có đường kính lớn để làm rầm thượng, chéo, liên ba, thành vọng, cửa bảng khoa…

Thời điểm trong năm để đốn hạ gỗ cũng cần được tuân thủ nghiêm ngặt, đó là vào tháng 5 âm lịch (giữa mùa hạ). Khai thác vào tháng này gỗ sẽ cứng và không bị mối mọt. Sau khi hạ cây, người ta dùng rìu đẽo (vả) phần vỏ gỗ (giác) bên ngoài và để khô tại chỗ. Thời gian chờ khô tùy thuộc vào đường kính cây, với các cây lớn phải chờ hơn 1 năm mới đạt tới độ khô cần thiết.

Khi đã hoàn tất việc chuẩn bị cây gỗ, thợ cưa (xẻ) gỗ và thợ mộc mới vào việc. Tất cả các công đoạn đều phải làm thủ công với rìu, cưa tay, bào tay, đục, chàng, khoan tay… “Thước thầy, mực thợ” là phương châm xuyên suốt quá trình thi công đảm bảo độ chính xác cao nhất giữa các chi tiết của công trình.

“Mực” là một công cụ thô sơ nhưng rất cần thiết và tiện dụng đáng để chúng ta nhắc tới. Ống mực của thợ mộc là một khối gỗ hình lập phương cạnh khoảng 8cm. Mặt trên đục 1 lỗ hình tròn và 1 lỗ hình vuông chia khối gỗ ra làm 2 ngăn: ngăn tròn chứa bông thấm mực tàu (thợ ta thường thay bằng dầu trộn muội than), ngăn vuông chứa cuộn dây cuộn vào cái tay quay nhỏ để thu dây. Khi đầu dây được kéo ra, dây đi qua ngăn mực làm mực thấm vào thành dây mực. Dùng dây mực này để vạch những đường thẳng lên các cây gỗ, kể cả các thân cây có bề mặt gỗ gồ ghề, rất chính xác.

Quá trình thi công rường gỗ của một ngôi nhà loại này luôn bao gồm sự phối hợp chặt chẽ giữa thợ mộc và thợ chạm (điêu khắc gỗ). Thợ mộc xử lý thô gỗ để tạo dáng căn bản trước khi chuyển cho thợ chạm. Công đoạn chạm khắc gỗ chiếm thời lượng khá lớn với rất nhiều chi tiết tỉ mỉ như: đầu kèo, xuyên, trếnh, liên ba, thành vọng… Sau khi bào gọt xong, bề mặt các bộ phận của rường nhà sẽ được đánh bóng nhiều lần bằng đầu các bó cỏ tranh khô được cột chặt nhằm tạo độ bóng cho mặt gỗ.

Cùng lúc với việc chuẩn bị rường gỗ là phần chuẩn bị rường tre, gia chủ phải đặt mua tre từ trước ở các khu vườn tre đẹp, thẳng, trồng trên các thửa đất tốt trước khi bắt đầu bước vào giai đoạn dựng nhà một vài năm. Tre được đốn hạ vào tiết đầu xuân để có thớ già cứng, tránh mối mọt. Thợ chế tác tre dùng khoan đục thủng các đốt tre (ngay phần các mắt tre), đem ngâm vào nước trong thời gian 100 ngày liền, sau đó vớt lên và phơi khô. Các mắt tre được thợ dùng bào tre (một dụng cụ riêng của các thợ tre) bào nhẵn. Sau khi phân loại theo mục đích sử dụng, tre cần được bảo quản kỹ càng nhằm tránh mưa nắng. Riêng các loại tre, lồ ô dùng để lát trần, làm cốt tường thì không cần ngâm mà chỉ cần chọn những cây già tuổi và có thân thẳng, đủ cành, ngọn.

Phần còn lại là chuẩn bị dây mây để chẻ lạt buộc, (cỏ) tranh và rơm. Mây phải chọn mây Song, mây Rã (loại mây rất dai, bền, lâu mục, không bị mọt…) già, để khô vừa đủ và được hong khói kỹ càng. Cỏ tranh lợp nhà phải là loại tranh tốt, già và được cắt rồi phơi nắng kỹ để có màu trắng bạc. Rơm sau khi thu hoạch lúa xong cần được phơi kỹ và bảo quản riêng.

Quá trình dựng nhà:

Phần công việc của thợ mộc:

Sau khi thợ chạm đã hoàn tất phần điêu khắc, thợ mộc sẽ tập hợp các vật liệu gỗ đã chuẩn bị từ trước ráp (sàm) thành khung nhà. Toàn bộ 24 cột nhà được dựng trên các tảng đá chân cột (được đẽo nguyên khối từ đá tự nhiên) đã được định vị trên nền nhà làm sẵn. Rường gỗ của kiểu nhà này luôn được liên kết với nhau bằng mộng, được khóa bằng các nêm và chốt bằng gỗ hoặc tre, tuyệt đối không dùng các loại đinh bằng kim loại. Chân của tất cả 14 cột hàng ba được liên kết với nhau bằng hệ thống đà gỗ cách mặt nền khoảng 5cm. Phần mặt tiền của căn nhà là các bộ cửa bảng khoa thượng song hạ bản gồm 5 lá ở gian giữa và 4 lá ở mỗi gian thuộc hai chái bên. Các lá cửa đều có thể tháo ráp được một cách dễ dàng khi cần. Chốt khóa từ bên trong bằng gỗ rất đơn giản và dễ sử dụng nhưng không kém phần chắc chắn.

Phần công việc của thợ tre.

Tiếp theo công đoạn lắp ráp rường gỗ của thợ mộc là công đoạn làm rường tre của các thợ tre. Bắt đầu là việc làm lớp mái (trần) thứ nhất. Hầu hết đòn tay, rui của ngôi nhà được làm từ tre đã ngâm đúng qui trình kỹ thuật vốn có từ xa xưa, buộc bằng lạt (dây) mây, cố định bằng các chốt (đinh) làm bằng tre. Nơi giao nhau của các đòn tay giữa các mái được liên kết âm dương với nhau và gác trên các kèo quyết rất chắc chắn.

Sau khi hoàn thành phần đòn tay và rui, thợ tre dùng tre lồ ô đã đập dập thành mặt phẳng lát kín lên trên bề mặt rui theo chiều song song với các đòn tay, phần cật (vỏ) hướng xuống dưới, ruột ngửa lên trên. Tiếp theo là việc lợp đất lên trần nhà. Cần chọn loại đất thịt thuần để có độ kết dính tốt, đất phải được lấy ở độ sâu hơn 1m và loại bỏ tất cả các tạp chất, kể cả các loại rễ cây. Người thợ lấy rơm trộn với đất và nước, nhào kỹ bằng chân đến khi thật đều và dẻo rồi đắp lên trần nhà trình tự từ dưới thấp cao dần lên đến nóc theo từng lớp liên tiếp nhau, lèn chặt và vuốt kỹ. Độ dày trung bình của lớp đất khoảng 8cm. Công việc này cần được làm thật nhanh và đều tay để toàn bộ khối trần bằng đất liên kết đồng bộ với nhau, tránh bị rạn nứt.

Phía trên lớp trần bằng đất khoảng 30cm là lớp mái nhà lợp bằng cỏ tranh. Phần này cũng được làm với đầy đủ cột chống, đòn tay, rui, mè bằng tre như phần mái của loại nhà tre lợp tranh thông thường.

Vách tường:

Vách tường nhà được làm từ 3 loại vật liệu chính là tre, rơm và đất. Tre được dùng làm cốt liên kết với hệ thống đà gỗ nối giữa các cột hàng ba. Các nan tre có chiều ngang từ 2cm đến 3cm được buộc chặt với nhau bằng dây lạt tạo thành những ô hình vuông có cạnh khoảng 10cm. Người xưa gọi hình thức đan cốt tre này là “đan rục rịch”. Các thợ dùng rơm chuẩn bị sẵn trộn với đất và nước, nhào kỹ bằng chân cho thật dẻo rồi đắp lên “rục rịch”. Lúc đắp đất hai người thợ đứng trong và ngoài cần biết ý nhau để phối hợp nhịp nhàng và chặt chẽ nhằm đảm bảo sự bền chắc và vẻ thẩm mỹ cho bức tường. Bề mặt tường cần được lèn thật kỹ và cán láng như tô tường nhà. Sau đó dùng vữa vôi tô lên bên ngoài, cuối cùng dùng chổi quét nước vôi pha màu cho mặt tường. Loại vách tường này nhác trông không khác gì tường xây bằng gạch.

Sau hơn bảy năm thi công, ngôi nhà rường có kiến trúc phức hợp này mới được hoàn thành. So với các loại nhà rường khác, loại nhà này có nhiều công năng vượt trội:

1, Chân tường gá trên đà gỗ cách ly với nền nhà làm cho căn nhà thoáng và nhiều ánh sáng hơn.

2, Nhà rất mát về mùa hè nhờ lớp trần bằng đất cách ly với mái lợp, do đó không hấp thu trực tiếp nhiệt từ ánh nắng mặt trời.

3, Nhà khá ấm về mùa đông nhờ lớp trần và tường bằng đất giúp cách nhiệt rất tốt với môi trường bên ngoài.

4, Vật dụng trong nhà không bị ẩm mốc ngay cả trong những tháng mưa dầm nhờ lớp đất đắp trần nhà và tường đất có tác dụng hút ẩm.

5, Khoảng cách giữa mái và trần nhà bằng đất có tác dụng cách ly ngọn lửa khi có hỏa hoạn.

6, Tăng tính năng chống bão vốn có của nhà rường lên nhiều lần dựa trên nguyên tắc dòng đối lưu của không khí nhờ vào sự thông thoáng giữa mái và trần nhà bằng đất.

Cũng như phần lớn các nhà rường khác, cách bố trí không gian trong ngôi nhà này mang đậm phong cách truyền thống văn hóa xứ Huế. Phần hậu của gian chính giữa là nơi thờ tự. Phần giữa gian này được kê bộ ván ngựa bằng gỗ kiền đen bóng. Liền kề phía chái trên là bộ bàn độc sáu ghế dùng để tiếp khách. Liền kề phía chái dưới là cái rương lớn bằng gỗ có 4 chân gắn 4 bánh xe (gọi là rương xe). Phần hậu của chái trên được kê một chiếc giường lèo (giường nhỏ làm bằng tre) làm nơi nghỉ ngơi của nam gia chủ để tiện việc nhang khói thờ phụng. Khu vực hậu chái dưới được ngăn cách với bên ngoài bằng tường đất, ván và cửa gỗ. Đây là phần không gian kín duy nhất của ngôi nhà.

Phía trước ngôi nhà, ngay trục chính qua một khoảnh sân là bức bình phong được tạo bởi mấy gốc lão mai soi bóng xuống cái bể cạn có hòn non bộ làm điểm nhấn phong thủy, bên cạnh được trồng xen với nhiều loài hoa khác. Dọc theo lối đi là hai hàng chè tàu được chăm chút, cắt tỉa cẩn thận trông như hai bức tường thành màu xanh lục hòa vào với màu xanh của mận, mít, chuối, cau, dâu gia… trong khu vườn tạo nên một khoảng không gian xanh mát.

Ở trong ngôi nhà này, người ta dễ có được cảm giác gần gũi với thiên nhiên nhờ màu xanh của cây trái, Sự mộc mạc dân dã hơn với rường gỗ, tre, trần đất, thanh thản hơn trong không gian tĩnh lặng của làng quê…

Qua ngót trăm năm, ngôi nhà vẫn bền bỉ trong khí hậu khắc nghiệt của miền Trung. Mọi thứ hầu như vẫn còn nguyên vẹn ngoại trừ phần tranh lợp đã được tạm thay bằng tole và nền đất nện được tráng lại bằng xi măng để tiện dụng hơn.

Với kết cấu chủ yếu chỉ bằng vật liệu tại bản địa, với kiến trúc và kỹ thuật tạo tác đặc trưng của nhà rường nguyên thủy ở xứ Thuận Hóa xa xưa từ thời mới mở cõi, Ngôi nhà rường nói trên xứng đáng được xem là nguyên bản của nhà cổ xứ Thuận Hóa còn lại đến ngày nay.

Ông Nguyễn Ái Quyệt, cháu nội của Người đã dày công xây dựng công trình, cũng là người đã và đang cố gắng gìn giữ kho báu kiến trúc này hiện vẫn đang ngày đêm trăn trở: “Với trào lưu phá nhà cũ xây mới lại bằng bê tông như hiện nay, hết đời mình không biết con cháu có tiếp nối bảo tồn được ngôi nhà này nữa hay không?!”…

Nguyễn Ái Phương